CÂY VỢT NHÔM
(Viết cho kỷ yếu Kỷ niệm 30 năm Hội ngộ trường xưa cựu HS trường THPT Kon
tum 1985-2015)
Kon
tum mùa khô hanh những năm 1980, đó là bắt đầu của những tuần đầu của học kì 2
ở ngôi trường Trung học phổ thông cấp 3 phố núi. Trời khô hanh lay lắt, không
khí như nín thở, chiều chiều, những mảnh tro tàn của một cánh rừng nào đó bị
lửa đốt…bay xa và rơi vương vãi xuống khoảnh sân nhỏ bé, quanh co, trải đầy sỏi
cát chen lẫn với những chiếc lá si, lá long não, phượng vỹ..vật vờ. Khoảnh sân
trường nhỏ bé đó được che phủ gần hết 1/3 với cái bóng cây Si khổng lồ: “Có bác
Si già, ôm lấy chú Bằng Lăng”. Gốc si đó không biết đã có tự bao giờ, khi chúng
tôi về trường nhận việc, nó đã đứng đó: uy nghi, ngạo nghễ. Cứ buổi sớm, từng
đàn chim chào mào “khổng tước” không biết từ rừng đại ngàn nào, bay về vần vũ
kể cả hàng trăm con, chen nhau, ríu rít tranh ăn những chùm quả Si đỏ lừng,
ngon ngọt. Thỉnh thoảng, một tiếng kẻng của bác Quý bảo vệ gióng lên báo giờ
đổi tiết, chúng lại giật mình xao xác lảng đi….rồi lại quay trở lại, vấn vít
trên tán lá của ngọn cây vĩ đại của bác
Si già, như đàn em học sinh ngây ngô dưới sân trường, quyến luyến với ngôi
trường yêu dấu vậy.
Một dạo, khoảng năm 1982 gì đó, lần đầu tiên, tôi ở
lại ăn Tết ở tập thể trường cấp 3. Có lẽ không nỗi buồn nào bằng một kỳ ăn tết
xa quê, nhưng dưới cội Si già, mấy anh em ngồi tán dóc, xoa tay, vung “triệt”
những quân cờ Đô Mi Nô, tú - lơ - khơ…cũng phần nào xoa dịu nỗi buồn nhớ tết
quê hương. Dưới cội Si già, chiều 30 tết, chúng tôi bày dọn một cỗ bàn đơn sơ
trên chiếc bàn nhỏ, để cúng tất niên. Vật thực chẳng có gì, đôi cặp bánh chưng
tự gói, mấy gói kẹo mậu dịch, dăm ba chén chè, đĩa xôi, vài nén nhang,…mà lòng
thành lễ bạc.
Một dấu ấn xa xôi lại về bên cội Si già đó, có lẽ thật
khó mà quên được. Một buổi sáng tinh sương khoảng tháng 5- 1980, sáng lơ mơ ngủ
dậy trong phòng nội trú bên cạnh văn phòng Đoàn, bỗng nhiên mình nghe những
tiếng tinh tinh, tang tang..văng vẳng từ nơi đại ngàn rừng thăm, âm thanh kỳ lạ
như từ cõi hư vô nào mà mình chưa từng nghe bao giờ. Dụi mắt, mở cửa bước ra nhìn
thì thấy dưới cội Si già tập trung một nhóm các già làng, bô lão dân tộc đã
ngồi tựa gốc Si từ bao giờ. Trên tay họ là mỗi người 1 cái cồng hoặc chiêng đủ
loại. Âm thanh kỳ ảo chính là từ dàn nhạc cồng chiêng này phát ra. Bên những
ống vố, bầu nước, với y phục cổ truyền, nét mặt bình thản như những khuôn mặt
tượng gỗ nhà mồ…, họ tấu chiêng mà âm thanh đó len lỏi vào hồn người nghe như
tiếng gọi hào hùng, pha nét bi ai của núi cao rừng thẳm. Cũng không biết tại
sao, cổng trường ban đêm đóng lại mà họ lại vào tập trung ngồi lại quanh gốc Si
già? Câu trả lời theo tôi suy nghĩ có lẽ gốc Si già trong sân trường mình thuở
xưa là dấu tích xa xưa của ngôi làng cổ Kon Tum thuở nào chăng? Cả thị xã rộng
lớn bao la, bao nhiêu là cây cao, bóng cả, thảm cỏ, quảng trường, cớ sao họ lại
tụ hội về đây từ nửa đêm để đón chờ ngày Lễ? (Lúc đó, đang có lễ hội “Rước đuốc
Bác Hồ” từ Bắc vô Nam ).
Dù gì đi nữa, sáng sớm mở mắt ra, nhì thấy cảnh tụ hội và nghe những âm thanh
từ xa xôi đại ngàn sâu thẳm đó, trong tôi như có làn gió lạnh sởn óc chạy dọc
sống lưng! Ôi, Kon Tum, đất cao nguyên cổ xưa của bao nhiêu truyền thuyết,
huyền hoặc… lại trỗi dậy ùa về trong tôi như một cảm xúc lạ kỳ, không bút mực
nào tả hết được….
Hồi đó, tập thể giáo viên trẻ ở nội trú đa số chưa có
gia đình, sống bên nhau trong nội trú của trường còn khăng khít hơn anh em
ruột. Ngoài những giờ lên lớp, soạn bài, hay là những tiết sinh hoạt chủ nhiệm
“tra tấn” học trò, anh em chỉ còn có việc đi chợ, thổi cơm, kho cá, nấu
canh…như những bà nội trợ thực thụ. Một cái bếp nhỏ phía sau dãy nội trú, dưới
bóng cây mít, vài chiếc bàn hỏng chỏng chơ…dăm cục gạch kê ông táo…Đó chính là
“tài sản” dùng để nấu ăn, nuôi sống 3, 4 anh em chúng tôi. Mọi sự phân công đều
rất khoa học và chính xác, bằng lối tư duy của những cái đầu “trí tuệ” của quý
vị giáo sư tốt nghiệp từ trường đại học cơ đấy. Anh nào nhanh nhẹn, chịu đựng
sự tò mò của “dư luận” .., thì lo đi chợ. À, mà phải có cái duyên buôn bán nữa
đó, ban đầu thì đổi phiên, sau đó, cơ chế phân chia nó tự động hình thành. Thầy
H., thầy T…lo đi chợ, thầy T. lo pha chế, nấu ăn, thầy N. lo “bia” phượng khô,
làm chất đốt. Hít hà,… cứ như thế, mỗi lúc hết tiết 5, học sinh tan trường, thì
cũng là lúc nồi cơm nấu xong, bắt đầu công cuộc “tra tấn” khứu giác học sinh
với mùi phi hành mỡ thơm lừng…lan tỏa từ cái hiên bếp nhỏ bé phía sau văn phòng
Đoàn thuở ấy. Bữa cơm đạm bạc, canh rau tập tàng, đĩa cá ngừ hấp kho trộn với
dưa cải muối “Tân Xạ”, xoong cá mà cải nhiều gấp mấy lần cá…bên chén nước mắm,
ít quả ớt hiểm….thế mà ngon không thể tả, nuôi sống và làm ấm lòng những cái dạ
dày lép kẹp của những chàng trai “hay ăn, chậm lớn” này.
Đã có làm, có ăn, thì phải có …chơi. Thể thao chính là
cái phao cứu sinh cho những buổi chiều rảnh rỗi. Cái sân bóng chuyền trước dãy
nhà hội trường, một khoảnh sân cát với 2 cái cọc lưới bằng thân cây gỗ nguyên
sơ với cái ống đạn cà nông bọc ngoài, mảnh lưới con con không đủ kích cỡ…lại là
nguồn vui cho tập thể anh em giáo viên của trường. Không cần đội hình, không
cần giày áo, cứ chân trần, với 1 quả bóng, trên cái sân cát đó, là đã có những
“chầu” các độ uống cà phê, ăn phở “ông Quáng” sôi nổi rồi. Đội hình thì đủ cả
các thể loại: 4-4, 3-3, 2-2, và cả solo 1 chọi 1…(Có lẽ bộ môn bóng chuyền bãi
biển quốc tế bây giờ cũng còn kém xa độ hot bấy giờ đấy chú!).
Đáng nể nhất là câu chuyện “cây vợt nhôm” của tôi xin
kể ra đây. Số là hồi đó, ở Kon tum chưa có bộ môn đánh cầu lông cho học sinh.
Tất nhiên trong kho học cụ, cũng chỉ có mấy cái khung vợt gỗ cầu lông lèn quèn,
khung cong vênh, lưới đứt chỏng chơ… Để khôi phục “phong trào” đánh cầu lông,
hôm tháng trước về nghỉ Tết ở Huế, tranh thủ mấy hôm rảnh rỗi, tôi bèn ra sức
gia công làm 1 cặp “vợt nhôm”. Nên nhớ là lúc đó, 1 cái “láp xe độp” tức là cái
lốp xe đạp, cũng phải chờ đăng ký, 3 năm mới được mua phân phối, xe đạp là đồ
xa xỉ, thì cái vợt cầu lông tốt ở Huế và Kon tum: có thể nói là “không thấy bao
giờ”. Khung nhôm được cưa từ mảnh nhôm ballet nhôm lót sân bay (tấm ri nhôm),
sau đó uốn nắn theo kích cỡ 1 cái vợt cũ mua trước 1975. Khoan lỗ bằng khoan
tay tự chế, và lưới đan là dây cước câu cá…Thế là đã hoàn chỉnh một “tác phẩm”
công nghệ khá hoàn hảo: 2 cây vợt nhôm “made in Như Thảo”, bằng nguyên liệu USA đàng hoàng.
Khi vào những
tháng 3 “mùa con ong đi lấy mật”..Tây nguyên gió bụi mùa khô ngút ngàn, cũng là
lúc khi đàn chim “chào mào” về tranh nhau quả ngọt của Cây si già, cũng là lúc
chúng tôi “khai trương” phong trào “Badminton” trên đất Kon Tum. Sẵn cái sân
bóng rổ cũ phía sau hội trường, kề bên cái giếng, lại được bao bọc 3 phía bởi
tường nhà và tường rào phía Thị đội, đây chính là địa điểm lý tưởng để kẻ vẻ
kích thước cho cái sân “vũ cầu” của chúng tôi. Và thế là, sáng chủ nhật, hay
vào các buổi chiều khi mặt trời tắt nắng, phong trào đánh vũ cầu trong sân sau
của Hội trường luôn râm ran, sôi nổi. Mạnh nhất có lẽ là thầy V.Quang, cây
tennis – giáo viên thể dục, đội lão tướng “anh hùng cái thế” lại là thầy Quáng
nhà mình. Còn lại thì anh em cứ …sàn sàn…, vừa đủ “câu độ” cho vui cửa vui nhà.
Nuôi nhau bằng “xôi mậu dịch”, “cà phê Da Vàng”, tươi hơn thì một chầu “phở bò
kho” ông Quáng, hay tô bún ông “Tàu dơ”, hay là một bữa đại tiệc “bò viên” của
ông “Tàu la”, với vài cốc rượu đế lai rai…. Đời đơn giản, thế mà vui! Thế rồi,
tiếng lành đồn xa, mấy anh em ở phường Quyết Thắng như anh ..Minh…cũng cùng vào
góp vui, sau này, nhờ các chuyến xe buýt Sài Gòn – Kon Tum, anh em có điều kiện
mua về nhiều cặp vợt nhôm của Liên Xô, của nước ngoài rất đẹp…
-Bên cổng trường năm 1985- GV và HS ban văn nghệ THPT Kon Tum
Thời gian qua mau, mới đó mà đã trải qua hơn 30 mùa
Xuân trở lại. Bây giờ với một đô thị thành phố phát triển, nhiều sân chơi như
sân tennis, nhiều nhà thi đấu của thành phố hiện đại, nhiều cây vợt “xịn” giá
hàng trăm USD…nhưng trong ký ức của tôi, “cây vợt nhôm” tự chế đã làm nên công
việc “tái khởi động” phong trào chơi cầu lông, môn thể thao bao năm bị “ru ngủ’
nay đã “hồi sinh” lại ở phố núi và trường xưa, luôn luôn là một kỉ niệm đẹp
trong tôi, không bao giờ quên được.
Trường cũ, sân trường xưa với những bục “ghế đá” thô
sơ, cái giếng, Cây Si già “ôm lấy chú Bằng lăng”, và nhất là khoảnh sân vũ cầu
xưa sau dãy hội trường, “cây vợt nhôm” ….đã đi vào dĩ vãng, minh chứng cho một
thời “sống để thương nhau” trong môi trường anh em sư phạm trường cũ của tôi:
Trường Trung học phổ thông Kon Tum.
TNT56
Kỷ niệm “30
năm hội ngộ trường xưa”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét