Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014

BLOG CỦA CON TRAI

Những ông thợ cắt tóc ở làng quê...

        Tôi nhớ hồi còn nhỏ, cỡ 3-4 tuổi gì đây, mẹ hay dắt tối ra đầu xóm cắt tóc, đôi khi mẹ bận, tôi được đi xe đạp với ba, và ít khi đi 2 người, vì có cả ông anh của tôi nữa, quán cắt tóc nằm đối diện con sông ở quê tôi, hồi đó cắt tóc còn bình dân lắm, quán cắt tóc tôi hay cắt là một quán lụp xụp, nếu không muốn nói là tồi tàn, trên nền quán tạp hóa cũ trước kia của o tôi, quán dựng lên trên nền đất nện là mấy cái trụ bằng tre, mái cũng làm bằng tre nốt, lót bằng tôn cũ đả rỉ nát, trong quán đặt một cái ghế cắt tóc tự đóng bằng gỗ cũ, rất cũ,tôi lúc đó còn nhỏ nên ông thường dùng một tâm ván đặt lên trên tay vịn để tôi ngồi lên cho cao để cắt tóc cho dễ, trên bàn cũng là một đống kéo, lược và cây tông đơ và một cái gương nho nhỏ treo lên, một đoạn dây nịt bằng da cũ kỉ, trông đã quá đỗi sờn vì đã dùng để liếc chiếc dao cạo dễ đến hàng nghìn lầ.... tôi chỉ nhớ có thể, ông Trọng, đó là tên người lúc nhỏ thường cắt tóc cho tôi, một người đã luống tuổi, thân hơi cao gầy, da ngăm ngăm, mặt ông khá dữ so với cái bản tính hiền lành của một người nông dân như ông, và đặc biệt ông có một cái bướu ở phía bên vai phải, tôi còn nhớ rõ, cái bướu ấy to lắm, to bằng quả cam sành, đó là dấu hiệu tôi nhận diện và nhớ kĩ nhất về ông, ông rất hiền và rất quý gia đình tôi, vì cả nhà tôi, anh em tôi và ba tôi, đều cắt tóc ở đó từ lúc nhỏ cho đến lên cấp 2, hồi đó cắt tóc chỉ 5 ngàn một người lớn, 3 ngàn một đứa con nít, nhưng ông lúc nào cũng cắt kĩ lưỡng cho chúng tôi, ông thường bảo với tôi: “con nít cũng như người lớn, mình phải làm kĩ lưỡng, không được nói nó nhỏ mà không làm chu đáo được” ( tôi nhớ đại khái thế), nên hồi đó tôi thích cắt ở ông lắm, vì được cắt kĩ, mà thực ra tôi có cắt ai khác bao giờ, nên cũng chả rõ.Sau này tôi lên cấp hai, ông không còn cắt tóc nữa, tôi nghe mẹ bảo ông vào sống  tận Sài Gòn với con cái. Thế là cái quán bỏ hoang từ đó, sau này người ta phá đi làm tiệm bán hàng.


            Lên cấp hai, tôi cũng cắt tóc ở đầu xóm, nhưng ở một chỗ khác, đối diện quán cắt tóc cũ, quán là của một nhà ở đó xây ra cho thuê, và người thuê chính là chú Sáu. Sở dĩ chú có tên là Sáu, là bởi vì tay phải của chú có 6 ngón tay, ngón cái tách đôi ra làm hai ngón, chú Sáu cũng khá hiền, chú còn trẻ, để râu và luôn đội một cái mũ lưỡi trai dù trời nắng hay mưa, năm tôi học cấp 2 tôi thường ra cắt tóc ở chú, chú cắt tóc cũng vui vẻ, khi nào tôi cũng véo má tôi một cái cho được dù điều đó đôi lúc làm tôi khó chịu, chú cười hiền, nhưng có vẻ nhút nhát, nên đến sau này tận hơn 30 tuổi tôi mới nghe chú lấy được vợ, cắt tóc ở chú hồi đó có cái tông đơ bằng điện chạy xè xè, thấy tiện hơn và tóc cắt cũng đều hơn so với tông đơ bằng tay, thực ra sau này chú mới sắm và thực ra cũng không phải lúc nào cũng xài được, bởi vì vào mùa hè thì chỗ tôi cúp điện hoài, và những lúc vậy thì chú ùng cái tông đơ tay cắt từ từ, chậm rãi, lúc đó tôi khá hiền, chả bao giờ nghĩ là cắt tóc sao cho đẹp, chỉ nghĩ cắt tóc là cho gọn, cho khỏi nóng vào mùa hè, nên khi nào đầu tôi cắt xong cũng một kiểu đơn giản, mỗi lần cắt là 10 ngàn.Bẵng đi đến cấp 3, chú Sáu cũng thôi không thuê tiệm ở đó nữa, nghe nói chú đi qua ở Giáp Kiền, lấy vợ rồi mở tiệm luôn bên ấy.

            Lúc ấy khoảng hết cấp 3, tôi lại đi cắt tóc ở một chỗ khác, xa hơn độ 50 mét, đó là quán chú Hiệp, lúc ấy thuộc loại đắt nhất, 15 ngàn một đầu, quán cũng chỉ là một cái ghế cắt tóc kê ở thềm nhà, và lung tung thứ như mọi quán ở vùng quê khác ở trước bàn cắt, sở dĩ ở đây đắt hơn tôi nghĩ là vì chú Hiệp cắt được kiểu tóc thời trang, chú có thể cắt cho mấy đứa lứa như tôi đầu tóc đinh, tóc kiểu này nọ, tôi thì chả quan tâm, chỉ quan tâm là có chỗ cắt tóc gần nhà, sau khi cắt ở đó mới thấy là tay nghề của chú cao hơn, cắt tóc rất chuyên nghiệp, lại kĩ càng nên giá có chênh hớn chút ít. Chú Hiệp là một người trung niên, tóc luôn đầu đinh dù đã pha màu bạc, người tầm trung, và không cao cho lắm, vì vậy sau này lúc cắt cho tôi lúc nào chú cũng phải đưa tay lên cao để căt, tôi nghĩ chắc vậy thì mỏi tay lắm, nên thường ngồi thấp hơn so với bình thường. Chú Hiệp có một đặc điểm là vui tính và mê bóng đá, vậy nên chú rất được lòng mọi người ở đây, và chuyện gì ở làng chú cũng biết, nên có lẽ vì vậy mà buổi cắt tóc lại rôm rả người nói kẻ cười, riêng tôi lúc nào ra cắt ở chú cũng im lặng, đợi chú cắt xong lại ra về, sau này lúc quen rồi cũng nói vài ba câu chuyện đơn giản, vậy thôi.Bây giờ lúc học ở Huế, lúc nào cũng sau 4 tuần, tôi lại đều đặn ra cắt ở tiệm chú vào buổi chiều thứ bảy, và lúc nào cũng chỉ một đầu tóc đơn giản, không cầu kì, gọn là được, tôi cũng mong cắt một đầu tóc đẹp nhưng thường là cắt xong tôi thấy đẹp, nhưng cắt xong về gội đầu lại thấy ngu ngu -_- nên thôi cứ cắt như cũ, vì biết đòi hỏi kiểu gì nó cũng không đẹp. 

(Viết để nhớ tuổi thơ) Jame Tran

Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

Nội dung bài phát biểu khánh thành Niệm Tổ Đường Họ Trần- Hương Cần tại Ban Mê Thuộc, Đắc Lắc 2014

Kính thưa quý vị khách quý, kính thưa bà con,
“Đại mộc thủy nguyên, nhân do hồ tổ” có nghĩa là: Cây có cội, nước có nguồn.
                                
Tiên Kính Tổ tiên  Trần Tộc, Làng Hương cần, Hương Trà,  TT- Huế.
            Kính thưa quý vị quan khách, kính thưa quý bà con nội ngoại trong Tộc Trần làng Hương cần đang sinh sống, an cư tại Daklak.
            Thật vinh dự cho tôi được đại diện ban tổ chức trân trọng chào đón bà con về dự lễ khánh thành NIỆM TỔ ĐƯỜNG Họ Trần Làng Hương cần TT- HUẾ tại DAKLAK.Thay mặt bà con thuộc  dòng Họ Trần Làng Hương cần, TT- Huế tại Daklak cho phép tôi được dâng lễ  lên Tiên Tổ Họ Trần Làng Hương cần TT- Huế, đồng thời xin gửi tới toàn thể bà con có mặt tại đây cùng gia quyến lời chào trân trọng,lời chúc sức khoẻ đoàn kết thắm tình Họ Trần Làng Hương cần TT- Huế. 
      Kính thưa bà con, đạo lý "uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây" là truyền thống cả ngàn đời nay của dân tộc ta.Việc tri ân với Tổ Tiên đã và đang được nhiều thế hệ con cháu của Họ Trần Làng Hương cần TT- Huế trong các chi họ ở khắp nơi đã và đang thực hiện rất tốt. Trong đó, việc xây dựng, nâng cấp Nhà Thờ, Niệm tổ đường, ngày càng phát triển ở các địa phương.Tất cả các công trình này phải khẳng định : "Đó là các công trình văn hoá lưu dấu ấn klhai sáng của Tổ nghiệp Tộc Trần, làng Hương Cần, sẽ được lưu truyền cho con cháu mai sau”. Điều đặc biệt ở công trình Niệm tổ đường Tộc Trần ở Ban mê thuộc, Đắc Lắc này là tình đoàn kết gắn bó keo sơn của các thành viên trong Họ Trần Làng Hương cần TT-Huế tại Daklak. Tất cả đều một lòng tri ân với Tiên Tổ, hướng về quê hương Hương Cần, Thừa Thiên Huế, với tâm nguyện “ Ly hương không ly tổ”.
        Kính thưa toàn thể bà con, để có được công trình “NIỆM TỔ ĐƯỜNG TỘC TRẦN” to đẹp như hôm nay phải kể đến công lao của các vị hảo tâm là con cháu nội ngoại của Họ. Thay mặt ban điều hành Họ Trần tại Đắc Lắc, tôi xin được phép ghi ân và chúc mừng tình đoàn kết keo sơn của toàn thể bà con Họ Trần Làng Hương cần TT- Huế tại Daklak đã đóng góp tinh thần, vật chất cho công trình này và đề nghị ghi nhận công đức đó vào sổ vàng đóng góp xây dựng công trình của Nhà thờ Họ Trần tại DAKLAK để lưu truyền mãi mãi .


“ Cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ có tông” điều đó đã trở thành chân lý và quy luật của cuộc sống. Mỗi người con họ Trần Làng Hương cần sinh ra đều có sự kết tinh từ giọt máu của tổ tiên. Đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây” đã ăn sâu vào tiềm thức của cuộc sống loài người, của dân tộc. Vì thế, thờ cúng tổ tiên là nghĩa vụ của mọi người trong cùng một dòng họ. Việc xây dựng nơi thờ tự để thờ phụng các bậc tiền bối là nhu cầu chính đáng, đã trở thành nếp sống văn hoá của người dân các dân tộc Việt nam. Coi đây là đạo lý làm người, là thể hiện lòng tri ân của các thế hệ sau đối với Tiên linh, Tổ phụ của mình. Dù khi hưng thịnh, hay có lúc khó khăn, thì việc chăm lo xây dựng tu bổ nhà thờ tiên tổ, dòng họ là việc làm  sáng danh cho dòng tộc, un đúc tinh thần tôn tộc cho lớp lớp cháu con đến mãi muôn đời. Chúng ta sẽ thấy có lỗi với lương tâm khi khối óc con tim ta còn biết nghĩ đến điều phải trái, biết mưu cầu hạnh phúc cho bản thân cuộc đời ta, mà quên việc tri ân cho tiên linh, tổ phụ, quên đi nghĩa vụ với dòng tộc, với cộng đồng bà con trong dòng họ… 
Các con cháu họ Trần Làng Hương cần cũng không thể nằm ngoài quy luật đó, đời nào cũng mong ước xây được nhà thờ họ để thờ cúng và cũng là thể hiện sự hiếu thảo, báo đáp công đức sinh thành, dưỡng dục của Tổ tiên, vì vậy con cháu Họ Trần làng Hương cần tại Daklak quyết tâm xây dựng tại Daklak một nơi để thờ phụng Tổ tiên, hướng về quê hương, quê Tổ Hương Cần.
     Vào dịp chạp tổ ngày 9 tháng giêng âm lịch năm Qúy Tỵ 2013, Chi Họ Trần tại Daklak đã họp bàn và hạ quyết tâm thực hiện bằng được ý nguyện xây NIỆM TỔ ĐƯỜNG. Nhờ ơn trên Trời Phật sắp đặt và sự linh thiêng phù hộ độ trì của tổ tiên, khi kế hoạch xây dựng nhà thờ họ được khởi xướng, lập tức được tất cả mọi người đồng lòng, nhất trí hưởng ứng với quyết tâm cao. Ngay lập tức, Ban tổ chức chỉ đạo xây dựng được thành lập, Mệ Vấn đứng lên thay mặt gia đình tuyên bố cúng 100 m2 đất vuông vắn nhìn ra đường chính, thuận về phong thuỷ và đặc biệt cũng chính là đất do công sức của gia đình chắt chiu tạo dựng. Đây chính là điều kiện tiên quyết, là nền tảng cơ bản để xây dựng thành công NIỆM TỔ ĐƯỜNG. Đúng là “Địa Linh Tụ Khí xây nhà thờ Tổ; Tử tôn thờ phụng Phúc trường sinh”. Sau đó, đông đảo bà con trong và ngoài địa phương hưởng ứng đóng góp công sức, tiền của ủng hộ việc xây dựng nhà thờ. Việc xây dựng NIỆM TỔ ĐƯỜNG nhận được sự tự nguyện hưởng ứng của tất cả các ông bà, cô bác, và các con cháu nội ngoại. Mọi người đều có tâm hướng về dòng họ tuỳ theo điều kiện cụ thể của mình. Danh sách ghi công đức đóng góp ngày một dài thêm. Đặc biệt, nhiều ngưởi con gái mang họ Trần tuy đã xuất giá tòng phu, phải có trách nhiệm chăm lo cho họ bên chồng, nhưng biết tin họ xây nhà thờ đã gửi về công đức góp sức cùng dòng họ. Dòng họ Trần sẽ mãi mãi ghi nhớ tấm thành tâm của tất cả mọi người trong và ngoài họ. Danh sách công đức sẽ được ghi lại trong sổ và bia vàng danh dự để lưu truyền lại mãi mãi về sau.
Dòng tộc cũng mãi ghi nhận công lao, nhiệt tâm, vất vả của ban tổ chức chỉ đạo công trình mà nòng cổt là Bác Rơi, Anh Phong, mặc dù có nhiều trọng trách ở cơ quan nhưng luôn theo dõi sát sao tiến độ, chỉ đạo thi công xây dựng, Bác là một ngươì gương mẫu, nhiệt tình, trách nhiệm nên được con cháu tín nhiệm, kính trọng, chính nhờ sự chỉ đạo sát sao đã giúp công trình hoàn thành mỹ mãn như ngày hôm nay. Trong ngày lễ khánh thành vui tươi trang trọng này, đề nghị tất cả hãy cho một tràng pháo tay thật lớn để tuyên dương những đóng góp trên.
Kính thưa toàn thể bà con cô bác, Sau gần 4 tháng khởi công xây dựng. Bắt đầu từ ngày 24/9 QUÝ TỴ, hôm nay ngày 9/tháng GIÊNG/ năm Giáp Ngọ 2014. trong niềm vui, niềm hân hoan phấn khởi, của sự đoàn tụ dòng họ chúng ta để hướng về cội nguồn, bày tỏ tấm lòng hiếu thảo, thành kính dâng lên Tiên Tổ, NIỆM TỔ ĐƯỜNG đã hoàn thành. Con cháu Họ Trần Làng Hương cần tại Daklak chúng ta đã có một nhà thờ họ cao ráo, khang trang, tôn nghiêm, để phụng thờ Tiên Tổ, là ngôi nhà chung thiêng liêng của dòng tộc. Ngày 22/ tháng chạp, Qúy tỵ, Bác Trần Kỳ Ước đại diện ban điều hành về Nhà thờ tổ ở quê Hương Cần thỉnh Bát nhang Ngài Hiển thượng thủy tổ Trần Tộc ở Hương Cần để cung thỉnh vọng thờ tại Niệm tổ đường Tộc Trần ở Đắc Lắc. Chúng ta chân thành ghi nhớ sự ủng hộ của Bác Tộc trưởng Trần Như Hiệp, cùng các Bác Trưởng các Phái NHƯ, KỲ, HỨU, ĐỨC, tại quê nhà ủng hộ tạo điều kiện cho việc thỉnh nhang. Vào ngày 24/ tháng chạp/ quý tỵ, Lễ An Vị đã được tổ chức và thành công tốt đẹp, nhờ sự hợp tác của quý thầy Chùa Liên Trì. Từ hôm nay, NIỆM TỔ ĐƯỜNG Trần làng Hương cần tại Daklak sẽ chính thức được đưa vào sử dụng. Đây sẽ là nơi để dòng họ tổ chức ngày tế tổ, tảo mộ (lễ chạp tổ), những ngày húy kỵ…. Đây cũng là dịp con cháu xa gần tụ họp, dâng hương tưởng nhớ tổ Tiên, không những được đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh mà còn là dịp thể hiện tấm lòng báo hiếu đối với các bấc tiền bối, lưu giữ và phát huy truyền thống lịch sử của dòng họ, thoả mãn tâm lý hướng về cội nguồn, hiểu về nơi sinh thành của cha ông, về quá trình đấu tranh lao động để gây dựng cơ nghiệp lâu dàì, thấm nhuần giá trị phúc ấm tổ tiên để lại cho thế hệ mai sau. Tất cả những yếu tố đó góp phần quan trọng vào việc định hướng và giáo dục con cháu tiếp nối nhau phát huy tự hào của dòng họ để tu thân tích đức để tiến bộ hơn, sống có đạo đức hơn, biết hòa quyện gắn kết giữa gia đình và dòng họ, giữa dòng họ với cộng đồng, để từ đó có những đóng góp hài hòa cho lợi ích riêng- chung . Cùng dòng tộc xây dựng một nếp sống mới ngày càng có văn hóa hơn, thân thiện hơn, ấm no, hạnh phúc hơn. Ngoài việc cúng lễ tổ tiên, những ngày này còn là dịp họp bàn, đưa ra những chương trình, quy ước để xây dựng dòng họ thêm vững mạnh. Tuy nhiên, thành công này mới chỉ là bước đầu, để hoàn thiện toàn bộ khu nhà NIỆM TỔ ĐƯỜNG còn rất nhiều hạng mục và công việc phải làm, vì vậy, dòng họ rất mong tiếp tục nhận được sự nhiệt thành ủng hộ, những tấm lòng hảo tâm của tất cả mọi người để có điều kiện chỉnh trang các hạng mục của NIỆM TỔ ĐƯỜNG chúng ta ngày thêm khang trang, tôn nghiêm và ấm cúng.
Kính thưa toàn thể bà con , Trong buổi lễ long trọng và đầy tình nghĩa này, một lần nữa cho phép chúng tôi được thành thật biết ơn và đón nhận những tình cảm quý giá của tất cả bà con nội ngoại . Chúng tôi rất vui mừng, phấn khởi và xúc động hôm nay có bà con, chú bác, anh chị em, con cháu dâu rể, nội ngoại từ khắp mọi miền đã về dự Lễ Khánh Thành đông đủ, làm cho buổi lễ càng thêm ấm cúng, linh nghiêm, thắm đượm nghĩa tình của dòng tộc để được cùng nhau, chúng ta kính cẩn dâng lên bàn thờ Tổ Tiên, nén hương tưởng nhớ, tri ân đến Người đã sinh thành ra chúng ta, Người đã lập dựng nên Họ Tộc chúng ta. Nguyện cầu cho Tổ Tiên chúng ta nơi chốn cửu tuyền luôn được thanh thản, hằng mong Hồn thiêng của Tổ Tiên chứng trì cho tấm lòng thành kính của con cháu Họ Trần làng Hương cần tại Daklak. Cầu nguyện Tổ Tiên phù hộ độ trì cho con cháu dòng họ chúng ta được hồng ân phúc ấm, cát tường như ý!
 Nhân dịp xuân về, Thành kính gửi đến bà con nội ngoại, các vị khách quí lời chúc sức khoẻ, hạnh phúc và thành đạt! Chúc bà con, cô bác, anh chị em dâu rể, con cháu nội ngoại gần xa mạnh khoẻ, đoàn kết, thân ái. Chúc cho sự đoàn tụ của Đại gia tộc chúng ta ngày thêm bền vững, phát triển và hạnh phúc.

Chúc bà con đoàn kết, thân tộc, sức khỏe và thành đạt trong cuộc sống với niềm tin giờ đây chúng ta được sự đùm bọc dưới nôi Niệm tổ đường uy nghi của tổ tiên Tộc Trần, Hương Cần tại quê hương Đắc Lắc này.
            Xin cảm ơn

Tré : Món ăn hấp dẫn những ngày Tết

    Nem, Chả, Tré ...là những món ăn không thể thiếu được trong các ngày Lễ, Tết, nhất là ở Huế. Cách làm thì đơn giản nhưng hiệu quả rất tuyệt vời. Chúng ta hãy tham khảo cách chế biến sau đây:


Nguyên liệu: 
- 1 tai heo, 1 mũi heo, 500g thịt ba chỉ, 2g bì heo.


- 1 chén nhỏ gạo rang, 100g vừng, tỏi, riềng, lá ổi, lá chuối.
Cách chế biến:
- Tai heo, mũi heo, thịt ba chỉ và bì heo rửa sạch, cho vào nồi luộc chín.
- Gạo rang vàng, sau đó xay hoặc giã mịn để làm thính. Vừng trắng cũng cho vào chảo rang vàng.
- Tai, mũi và thịt heo nạt hoặc thịt bò băm... luộc chín, thái thành sợi nhỏ. Lá ổi, lá chuối rửa sạch, để ráo nước.
- Thịt, tai heo... sau khi thái nhỏ cho vào một chiếc thau sạch. Tiếp đến cho thính, riềng thái sợi, tỏi xay nhuyễn và vừng rang vào. Sau cùng cho muối, hạt nêm, đường vào và trộn đều. Nhớ là chỉ cho gia vị vừa, không nên cho mặn quá sẽ làm hỏng tré.
- Xếp lá chuối thành hình chữ thập, tiếp đến là lá ổi, cuối cùng là tré. Quấn chặt lá ổi lại, sau đó gấp lá chuối lại cho gọn và thật chặt. 
- Dùng dây thun quấn chặt lại bên ngoài.
- Để món ăn thêm đẹp mắt, bạn lấy lạt quấn bên ngoài cây tré, dùng dây thun quấn chặt hai đầu lại. Tré gói xong để trong khoảng hai ngày là có thể ăn được.
PS: 
Muốn tré ngon thì khâu chuẩn bị và pha chế là hết sức quan trọng: Bí quyết chính là khâu thái thịt thủ sao cho mỏng, thành sợi mịn, càng mảnh càng tốt. Nhiều nơi ở Huế có công nghệ thái thuê để có sản phẩm hoàn hảo. Trong nguyênliệu, nếu cho thêm thịt bò băm nhỏ vào chung với thịt thủ thì tré càng ngon hơn. Khâu gói tré cần bọc lá ổi để tăng thêm hương vị và giữ cho tré chín thơm. Còn hình thức có thể gói nhỏ bọc lá ổi, lá chuối hay lá dongv.v...hoặc cho vào túi ny lông nhỏ (túi gói xi rô), hay có thể cho vào hũ kín, cứ 1 lớp thịt 1 lớp lá ổi ...rồi đậy nắp kín. Nếu trời lạnh, để tré chín có thể ủ trong chăn chiên vài ngày để giữ nhiệt v.v...Tóm lại món ngon nào cũng có chút kỳ công.
Chúc các bạn có món nhậu ngon lành...

Lịch sử Hàn Quốc tóm lược

Lịch sử Hàn Quốc bắt đầu từ thần thoại Dangun, sau đó được chia thành các giai đoạn : thời đại Tam Quốc - Shilla Thống Nhất - Koryo - Chosun - thời kỳ bị Nhật chiếm đóng - thời kỳ chia cách Nam-Bắc và thời đại Đại Hàn Dân Quốc. Hiện nay, lãnh thổ bị giới hạn trong phạm vi “Bán đảo Hàn Quốc và các đảo phụ thuộc” nhưng lịch sử Hàn Quốc bao quát 1 khu vực rộng lớn bao gồm cả bán đảo Hàn Quốc và một số tỉnh Đông Bắc Trung Quốc hiện nay.

Thần thoại Dangun và thời đại Gochosun (Chosun cổ)
Xuất phát điểm của dân tộc Hàn và lịch sử quốc gia là thần thoại Dangun
Thần thoại Dangun
Với mong muốn cai trị tốt thế giới loài người ‘Hwan Woong’, con trai của ‘Hwan In’ (Thượng đế) đã dẫn các vị thần Gió, thần Mây, thần Mưa hạ giới xuống gần cây cổ thụ đan hương trên sườn núi Taebaek (ngày nay là núi Myohyansan) và dựng nên thành ‘Shinshi’.
Lúc bấy giờ, gấu và hổ đến cầu xin Hwan Woong cho được hóa thành người và được ngài truyền dặn rằng ‘”Chỉ được ăn cây ngải cứu và tỏi, không được nhìn ánh nắng mặt trời trong vòng 100 ngày’. Với lòng nhẫn nại, gấu đã hóa thành một thiếu nữ, tức là ‘Woongnyo’, còn cọp thì thất bạiVới mong ước được sinh con đẻ cái Woongnyo đã kết hôn cùng với Hwan Woong, khi này đã hóa thân thành người, và hạ sinh một người con trai mang tên ‘Dangun’.Vua Dangun lập đô Bình Nhưỡng và lấy quốc hiệu là ‘Chosun’. Dangun đã trị vì đất nước trong 1500 năm, sống đến 1908 tuổi và sau đó hóa thân thành Thần núi. (Theo Di Sử Tam Quốc)
Phân tích thần thoại Dangun
Nhân vật Dangun được phân tích dựa theo quá trình tổ tiên của dân tộc Hàn chuyển đến bán đảo Hàn Quốc và cai trị người dân bản địa. Việc truyền thuyết nói rằng Dangun dẫn theo nhiều vị thần có thể hiểu là người hàn cổ đã nắm được những kỹ thuật tiên tiến trong đó có canh tác nông nghiệp. Woongnyo tượng trưng cho người dân bản địa và việc kết hôn giữa Hwan Woong và Woongnyo được xem là sự kết hợp giữa lực lượng bên ngoài và lực lượng bản địa để hình thành nên một dân tộc. Dangun được coi là nhà lãnh đạo và là biểu tượng của một dân tộc mới.
 Thời đại Chosun cổ (Năm 2333 trước Công nguyên ~ Thế kỷ 2 trước CN)
Theo thư tịch cổ, vua Dangun lập nước vào khoảng 50 năm trước Công nguyên, khi Liêu đế của Trung Quốc lên ngôi hoàng đế. Theo tính toán thì đó là vào năm 2333 trước Công nguyên. Triều đại Chosun cổ thuộc thời tiền sử và do đó chỉ được nghiên cứu dựa trên các tư liệu cổ đại của Trung Quốc hoặc những chứng cứ khảo cổ học. Danh xưng vua Dangun là từ ám chỉ là thời đại có sự hợp nhất giữa việc cúng tế và chính sự quốc gia. Triều đại Chosun cổ đã khép lại sau thất bại trong cuộc giao tranh giành quyền lực với nhà Hán của Trung Quốc vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên.
Thời đại Tam Quốc (Thế kỷ thứ 1 trước CN ~ năm 668 sau CN)

            Vào thế kỷ thứ 1 trước Công nguyên, nhiều bộ tộc sống tại khu vực giữa bán đảo Hàn Quốc và khu vực Mãn Châu đã hợp lại và lập ra 3 vương quốc. Đó là thời đại Tam Quốc với vương quốc Goguryo nằm ở phía Bắc bán đảo Hàn Quốc và khu vực Mãn Châu, Baekjae nằm ở phía Tây và Shilla nằm ở phía Đông. Ba quốc gia này đã hợp nhất được nhiều dân tộc và có những bước phát triển nhất định.
 Goguryo (Năm 37 trước CN ~ năm 668 sau CN)
 Là vương quốc của bộ tộc Buyeo do ‘Jumong’(Đông Minh Thánh Vương) xây dựng trên khu vực Nam Mãn Châu, Goguryo đã thống trị toàn bộ khu vực Mãn Châu và một phần phía Bắc của bán đảo Hàn Quốc. Do nằm trên con đường huyết mạch tiến vào bán đảo Hàn Quốc nên kể từ khi bắt đầu dựng nước, Goguryo không thể tránh khỏi xung đột với Trung Quốc.
Khi triều đại Chosun cổ bị diệt vong, Goguryo đã thu phục quân Nakrang và quân Daebang, các lực lượng mà Trung Quốc đang nắm giữ để đánh đuổi hoàn toàn quân Trung Quốc ra khỏi bán đảo Hàn Quốc. Sau khi quét sạch đại quân của nhà Tùy vào năm 598, Goguryo đã trở thành một quốc gia hùng mạnh ở vùng Đông Bắc Á. Trong thời kỳ Tam Quốc, triều đại Goguryo có lãnh thổ lớn nhất và lực lượng quân sự mạnh nhất.
 Baekjae (Năm 18 trước CN ~ năm 660 sau CN)
Theo truyền thuyết, Onjo và Biryu, hai con trai của vua Đông Minh Thánh Vương nước Goguryo bị vua cha đuổi. Họ di chuyển xuống phía Nam và lập nên vương quốc Baekjae.
Baekjae hay xung đột với Goguryo, vương quốc án ngữ lối ra vào ở phía Bắc, nhưng mặt khác lại giao lưu với nhiều vương quốc của Trung Quốc bên biển. Baekjae thu phục quân Daebang, 1 lực lượng của Trung Quốc trên bán đảo Hàn Quốc rồi tiến đánh Goguryo ở phía Bắc và Shilla ở phía Nam. Baekjae cũng mở rộng nối bang giao với các vương triều ở Nhật Bản.
Baekjae đã có một nền văn hoá rực rỡ nhưng cuộc chiến liên miên với Goguryo và Shilla đã khiến vương quốc này dần dần suy yếu và cuối cùng bị liên quân Shilla-Đường đánh bại và bị diệt vong vào năm 660.
         Sau khi quốc gia bị diệt vọng, nhiều người dân Baekjae đã sang Nhật Bản và đóng góp rất lớn vào sự phát triển của các vương triều Nhật cổ đại, nhất là trong lĩnh vực văn hóa.
 Shilla (Năm 57 trước CN ~ Năm 935 sau CN, bao gồm thời đại Shilla thống nhất)
Cả Goguryo và Baekjae đều là các đất nước xuất phát từ Buyo, trong khi Shilla là dựa theo truyền thuyết tổ tiên của Shilla là Bakhyukkeose từ trong trứng sinh ra. Nói cách khác, Shilla được hình thành nhờ sự kết hợp giữa những người thuộc nền văn minh tiên tiến hơn ở bên ngoài và người dân bản địa.
Nếu tính cả Shilla thống nhất thì vương quốc này tồn tại được 992 năm, qua 56 đời vua và được gọi là “Vương quốc ngàn năm”.
Do nằm ở phía Đông Nam bán đảo Hàn Quốc nên tiếp nhận nhiều văn minh tiên tiến và cũng đã gặp nhiểù khó khăn cho việc này, do vậy mà vương quốc này phát triển trễ nhất trong 3 nước thời tam quốc. Tuy nhiên do phát triển ổn định, Shilla đã xây dựng được 1 đất nước hùng mạnh cả về quân sự lẫn văn hoá. Shilla đã liên kết với nhà Đường và lần lượt đánh bại quân Baekjae và Goguryo để thống nhất lãnh thổ.
 Thời đại Shilla thống nhất (Năm 668 ~ 935)
Sau khi thống nhất 3 nước, Shilla đã dẹp bỏ được sự can thiệp của nhà Đường và chiếm lĩnh hầu như toàn bộ bán đảo Hàn Quốc, chỉ ngoại trừ vương quốc Balhae do các du dân của Goguryo lập nên ở phía Bắc. Có nền văn hóa phát triển rực rõ và được gọi là vương quốc Phật giáo, Shill thống nhất chính là nền tảng hình thành nên dân tộc Hàn thống nhất và phát triển.
Đến cuối thời này, tầng lớp vua quan rơi vào lối sống xa hoa hoang lạc, triều đình hư bại, các phú hộ địa phương tranh giành quyền lực. Sau đó, Goryo lại tái thống nhất và triều đại Shilla bị diệt vong.
Thời đại Goryo (918 ~ 1392)
Thái tổ Wang Gun lập nước Goryo vào năm 918, lấy Song-ak (ngày nay là Gaesong) làm kinh đô. Goryo đánh chiếm Shilla vào năm 935, lật đổ triều đại hậu Baekjae vào 936, tái thống nhất đất nước.
Thời Goryo coi trọng Phật giáo và xúc tiến các chính sách Bắc tiến nhằm mở rộng lãnh thổ.
Sau đó, Goryo bị quân Nguyên xâm lược và triều đình phải thần phục ngoại bang. Nhờ nhà Minh đánh đổ nhà Nguyên, Goryo mới hồi phục được quyền lực nhưng cuối cùng ngôi báu vẫn rơi vào tay Lee Seong-gye, 1 trong những võ tướng có thế lực mạnh. Thời đại Goryo kéo dài 474 năm và trải qua 34 đời vua.
 Thời đại Chosun (1392 ~ 1910)
 Cao Ly được thành lập năm 918 và tới năm 936, đã thay thế Tân La với tư cách triều đại cai trị Triều Tiên. "Cao Ly" (Goryeo) là nguồn gốc tên tiếng Anh "Korea" của Triều Tiên. Triều đại này tồn tại tới tận năm 1392. Trong giai đoạn này các bộ luật đã được soạn thảo và một hệ thống dịch vụ dân sự được đưa ra áp dụng. Phật giáo phát triển mạnh và mở rộng ra toàn bán đảo. Công nghiệp đồ tráng men phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ 12 và 13. Sự xuất bản cuốn Bát vạn đại tạng kinh (Tripitaka Koreana), và kỹ thuật in kim loại đầu tiên trên thế giới trong thế kỷ 13, là minh chứng cho những thành tựu văn hóa của Cao Ly.
Năm 1231 người Mông Cổ bắt đầu những chiến dịch chinh phục Triều Tiên và sau 25 năm chiến đấu, gia đình hoàng gia đã phải chùn bước qua hành động ký kết một hiệp ước với những người Mông Cổ. Trong 80 năm tiếp sau Cao Ly vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng dưới sự can thiệp Mông Cổ. Trong những năm 1340, đế chế Mông Cổ nhanh chóng suy tàn vì những cuộc tranh giành nội bộ. Cao Ly Cung Mẫn Vương (Cungmin) cuối cùng cũng được tự do hành động cải cách chính phủ Cao Ly. Cung Mẫn Vương phải đương đầu với nhiều vấn đề gay gắt, gồm cả việc loại bỏ những vị quan và tướng lĩnh ủng hộ Mông Cổ, vấn đề sở hữu đất đai và dập tắt tình trạng thù địch giữa những tín đồ Phật giáo và các học giả Khổng giáo.
Một vấn đề khác là hải tặc "Nhật Bản" (Nụy khấu = giặc lùn), khi ấy đã tổ chức những cuộc tấn công sâu vào trong nội địa đất nước. Tướng Lý Thành Quế (Lee Seonggye) đã thành công với hàng loạt những chiến dịch đẩy lùi hải tặc. Triều đại Cao Ly tồn tại tới năm 1392, khi Lý Thành Quế, người có sự ủng hộ mạnh mẽ của tầng lớp quan lại, dễ dàng tiến hành một cuộc đảo chính.
Năm 1392, một vị tướng Triều Tiên là Lee Seonggye (Lý Thành Quế) được cử tới Trung Quốc trong chiến dịch chống lại nhà Minh, nhưng thay vì thực hiện sứ mệnh, ông đã quay lại để lật đổ vị vua Cao Ly và thành lập một triều đại mới. Ông đặt tên cho nó làTriều đại Triều Tiên để vinh danh Cổ Triều Tiên trước đó (chữ "Cổ" về sau được thêm vào để phân biệt). Vua Thái Tổ dời thủ đô tới Hanseong (Hán Thành) (tên chính thức là Hanyang (Hán Dương) - Seoul ngày nay) và xây dựng Gyeongbokgung (Cảnh Phúc cung). Năm 1394 ông đưa Khổng giáo trở thành tôn giáo chính thức của đất nước, dẫn tới sự suy giảm quyền lực và của cải của phe Phật giáo. Nhà Triều Tiên có nhiều tiến bộ trong khoa học và văn hoá: đáng chú ý nhất là bảng chữ cái Hangul do Thế Tông phát minh năm 1443. Triều đại Triều Tiên được cho là triều đại thực sự nắm quyền lâu nhất tại Đông Á trong thiên niên kỷ qua. Các vua triều đại này họ .
Vào cuối thế kỷ 14, vương triều Cao Ly - do Vương Kiến lập nên từ năm 918 - sau 4 thế kỷ tồn tại từ chỗ cường thịnh đã trở nên suy nhược và đang đứng trên bờ vực thẳm. Thật sự, nền móng của vương triều đã sụp đổ tan tành ngay sau khi bị Đế quốc Mông Cổ xâm lược và biến thành một nước phiên thuộc. Tính hợp pháp của Nhà nước Cao Ly cũng càng lúc càng trở nên đáng nghi ngờ vì hoàng gia Cao Ly không những không còn khả năng cai trị đất nước một cách hiệu quả mà còn bị buộc phải kết hôn với những thành viên thuộc hoàng tộctriều Nguyên, hành động được coi là một vết nhơ nhuốc của vương triều Cao Ly; thêm nữa nhửng cuộc đấu đá tranh giành quyền lực ngay trong nội bộ hoàng gia càng làm tình hình thêm tồi tệ (ngay bản thân mẫu hậu của U Vương - vua nhà Cao Ly đương tại vị cũng chỉ là một phụ nữ thuộc tầng lớp bình dân, chính việc này khiến người đời có những dị nghị rằng liệu ông có đúng thuộc dòng dõi của Cung Mẫn Vương hay không ?).
Tình hình nội bộ vương triều Cao Ly cũng vô cùng rối ren. Các cuộc đấu đá, tranh giành quyền lực quyết liệt giữa các các quý tộc, các tướng lĩnh và quan lại khiến triều đình lâm vào cảnh chia bè kết phái rất trầm trọng. Với việc các hải tặc Oa Khấu (Nhật倭寇 wakō?) thường xuyên cướp phá vùng duyên hải bán đảo Triều Tiên cũng như các cuộc xâm lấn Cao Ly của nghĩa quân Hồng Cân theo đà đánh đuổi nhà Nguyên, kẻ nắm quyền thực sự trong triều đình Cao Ly chính là phái cải cách Sinjin và phái đối lập Gweonmun, cũng như những tướng lĩnh trực tiếp chiến đấu chống lại các thế lực ngoại xâm - ví dụ như vị tướng tài ba Lý Thành Quế và địch thủ chính trị của ông, Tể tướng Thôi Huỳnh. Sự trỗi dậy của triều Minh - do Chu Nguyên Chương sáng lập - đã khiến cho thế lực của nhà Nguyên - Mông Cổ suy yếu trầm trọng, không chỉ họ bị đánh đuổi khỏi Trung Nguyên mà thậm chí Cao Ly đã giành lại được độc lập từ tay đế quốc Mông Cổ ngay trong thập niên 1350 (mặc dù các thế lực Mông Cổ ở miền Bắc Cao Ly vẫn còn rất mạnh với những đội quân đông đảo trong tay).
 Vương triều Chosun do Thái tổ Lee Seong Gye, 1 võ quan dựng nên với tư tưởng cải cách dựa trên Nho học. Do việc chuyển giao quyền lực được tiến hành thông qua hình thước “nhường ngôi” chứ không phải là binh biến nên đây được gọi là “cuộc cải cách triều đại”.

Vua có quyền lực tuyệt đối, nhưng các nhóm học giả cũng nắm quyền vì nho giáo. Cho nên tuy được gọi là vua nhưng vương triều này rất đặc biệt vì phải sống dựa theo triết học chính trị chặt chẽ và chịu sự ảnh hưởng của các thế lực nêu trên.
Thời đại này đã có sự phát triển vượt bậc về văn hóa cũng như khoa học kỹ thuật, điển hình là việc sáng tạo ra chữ Hangeul, công cụ đo mưa… Tuy nhiên, do tư tưởng cứng nhắc quá mức nên xã hội bị đình trệ.
Bước qua thời cận đại, do không theo kịp sự thay đổi của thế giới vì đã đóng cửa đất nước quá lâu nên Chosun đã trở thành “miếng mồi” của các cường quốc. Cuối cùng, bán đảo Hàn Quốc rơi vào tay thực dân Nhật vào năm 1910.
 Thời kỳ bị Nhật chiếm đóng (1910 ~ 1945)
Nhật Bản đã lập ra Phủ Toàn quyền Triều Tiên áp dụng chính sách đồng hóa người Hàn. Nhật đã bắt người hàn đổi họ và cấm cả ngôn ngữ và chữ viết.
Thời kỳ này, cộng đồng người Hàn ở Trung Quốc và Nga liên tục đấu tranh đòi độc lập trong khi chính phủ lâm thời Hàn Quốc đã được thành lập tại Trung Quốc để lãnh đạo cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc.
Cuộc Cách mạng 1 tháng 3 năm 1919 đã nổi tiếng trên thế giới khi người dân Hàn Quốc đối kháng với quân Nhật có vũ trang mà hoàn toàn không dùng đến bạo lực.
Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc vào năm 1945, quân Nhật rút khỏi Hàn Quốc, kết thúc thời kỳ chiếm đóng.
Thời đương đại
 Sau khi được giải phóng vào năm 1945, bán đảo Hàn Quốc lại bị chia cắt thành 2 miền Nam-Bắc do các hoạt động quân sự của Mỹ ở phía Nam và Liên Xô cũ ở phía Bắc.
Đến năm 1948, chính phủ Hàn Quốc được thành lập và nước Đại Hàn Dân Quốc được cộng đồng quốc tế công nhận là chính phủ hợp pháp duy nhất trên bán đảo Hàn Quốc. Cũng trong thời gian này, nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên được thành lập ở miền Bắc với sự hỗ trợ của Liên Xô cũ.
Năm 1950, Bắc Triều Tiên tấn công Hàn Quốc dẫn đến cuộc nội chiến kéo dài 3 năm. Nhờ sự can thiệp của Liên họp quốc và Trung Quốc, hai bên đã đình chiến nhưng đất nước vẫn bị chia cắt cho tới ngày nay.

Sau những biến động chính trị và xã hội vào những năm 1960, Hàn Quốc bắt đầu phát triển mạnh vào những năm 1970 và tạo ra “Kỳ tích sông Hàn”. Từ cuối những năm 1980, chế độ dân chủ đã được cải thiện thông qua hình thức bầu cử tổng thống trực tiếp. Cùng với đó, quan hệ Nam-Bắc đã thoát khỏi thời kỳ chiến tranh lạnh, và bước vào kỷ nguyên hòa giải và hợp tác.