Blog ghi lại những cảm nghĩ của tôi , đã qua hơn 60 năm cuộc đời. Từ một chú bé vùng quê ngoại thành Cố đô Huế . Đã đi nhiều nơi, gặp nhiều người, nghe và thấy nhiều điều. Muốn lưu lại vài lời tự sự với mọi người đừng để " Gió cuốn đi!"
Thứ Hai, 26 tháng 10, 2015
Tuổi thơ của Ba tôi
Đến năm 2015, ba tôi đã được 80 tuổi rồi, cái tuổi mà “cổ lai hy” cũng khó mà nhắc nhiều đến những ký ức cách đây sáu bẩy mươi năm...
Chủ Nhật, 25 tháng 10, 2015
Hoàng Kim Việt: Honda Super Cub tại Việt Nam
Hoàng Kim Việt: Honda Super Cub tại Việt Nam: Một thành công lớn nhất trong lịch sử công nghiệp cơ khí của Nhật Bản là chiếc xe 2 bánh được sản xuất bởi công ty Honda. Đánh dấu sự p...
HŨ RƯỢU RẮN LỤC
Những năm 83-84 ở trường THPT Kon Tum, thị xã Kon tum
cũ có nhận thêm nhiệm vụ nuôi dạy một số học sinh phổ thông dân tộc về nội trú
tại trường. Để tiện việc nuôi dạy các em, Thị xã bàn giao cho trường thành lập
khu cơ sở nội trú cho trường ở bên kia đường quốc lộ 14, ngay bên phải chân cầu
Đăk Bla. Tôi còn nhớ đây là mấy dãy nhà cấp 4 là cơ sở của trường Trung học
Nông Lâm Súc cũ trước 1975, nay đã hoang hóa nên trông rất quạnh hiu. Khi thành
lập khu nội trú có 2 phòng học lớn dành chỗ cho hơn 40 học sinh dân tộc nội
trú. Còn lại là 3 dãy nhà tiền chế 1 mái lợp fibro xi măng, thấp và nóng, làm
chỗ nội trú cho giáo viên và nhân viên, bếp ăn tập thể v.v…Điểm nhấn đặc biệt
của quang cảnh khu nhà nội trú này là có các khoảnh trống rộng rãi, nền cát pha
rất sạch chứ không là đất đỏ ba dan như những khu dân tộc nội trú như ở trường
Thanh niên dân tộc – Vừa học vừa làm Đăkto mà tôi từng dạy năm 78-79. Đặc biệt
là khoảng dăm bảy cây Kơ Nia cao lớn, thân cứng như sắt, gân guốc với những cái
bạnh vè đặc trưng của cây rừng mưa nhiệt đới, có lẽ chúng đã được “chúa rừng”
để lại ngót nghét hằng trăm năm. Thế là, từ một trường phổ thông trung học
chuyển sang một nửa là dân tộc nội trú, sự đan xen, hòa quyện giữa 2 loại hình
này làm nẩy sinh nhiều vấn đề trong quản lý, nuôi dạy, làm kinh tế, sắm sửa cơ
sở vật chất, ô tô…của trường.
Cũng từ đây, sinh ra nhiều câu chuyện thú vị, kỷ niệm
một thời làm thầy giáo trên phố núi vùng cao của tôi và của nhiều thầy cô cùng
trường những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Nối thế nghe rất xa xôi,
nhưng quả thực, thời gian trôi qua rất nhanh, như bóng câu qua cửa sổ; hẵng
quên thì thôi, nhưng nếu có ai đó chợt gợi lại, nhắc lại, lập tức như một cuốn
phim ký ức được “retour lại”. Hình ảnh, kỷ niệm xưa cứ tự nhiên tràn về cuồn
cuộn như dòng thác Yaly trên sông Đăkbla yêu dấu, không thể ngăn tràn được.
Trong vô vàn mẩu chuyện đó, tôi nhớ nhất là câu chuyện
“uống thử rượu rắn lục” của anh em giáo viên trong khu nội trú trường cấp 3 Kon
tum ở cầu Đăkbla. Thời đó, để tăng thu nhập cho trường và áp dụng cái gọi là
giáo dục lao động cho học sinh. Năm nào giữa hai học kỳ 1 và 2 là có kỳ lao
động tập trung 1 tuần. Năm đó (1984) trường nhận việc làm cỏ, phát hoang rừng
để trồng cao su của sư đoàn 331 ở Đăk Hà. Trường có xe tải IFA dùng để chở HS
nội trú và thầy cô. Còn học sinh phổ thông tự đạp xe đi lao động cách trường 12
km. Đường đi thì xấu, lại xa, đặc biệt đáng sợ nhất là cái dốc “Đầu lâu” có
phanh …cũng tuột. Thầy trò chúng tôi hồi đó lao động rất miệt mài, khá khen cho
học sinh phố núi vùng cao, đa số các em đều có dụng cụ tốt (rựa, cuốc), kỹ năng
không phải xoàng…Sau bao nhiêu ngày lăn lộn công việc cũng dần xong. Rừng núi
vẫn còn hoang sơ, rắn rít, bò cạp, lợn rừng, trút, nhím …vẫn còn. Đến ngày gần
cuối đợt lao động, lớp thầy Danh dạy Hóa, chủ nhiệm 1 lớp học sinh dân tộc nội
trú, bắt sống được nhiều rắn. Đó là loại rắn lục, thân hình dài thòng và có da
màu xanh lục, trông rất ghê. Thầy Danh, với cái cơ sở “nấu rượu nuôi heo” của
mình ở nội trú đã nhanh tay đem 1 con rắn lục bự cho vào 1 hũ rượu dầm ngay.
Nghe nói là rắn độc thì ngâm rượu rất tốt. Bẵng đi 1 thời gian, trong 1 buổi
chiều Thứ Bảy, sau tiết dạy cuối, nhiều thầy tụ tập ở nội trú tán gẫu và rủ
nhậu lai rai. Rượu vào lời ra, bất chợt mọi người hỏi thầy Danh về cái hũ
rượu…rắn lục có còn không? Các bạn nên nhớ đó là hồi 84, chứ chưa phải như bây
giờ, chưa ai trong số anh em giáo viên biết uống rượu…rắn. Nhưng vì cái tính tò
mò, cả nhóm về phòng thầy để xem. Nhìn cái hũ thủy tinh trong vắt, 1 chú rắn
lục cuộn mình xanh biếc trong cái hũ, màu nước trong hũ cũng xanh lè, ai nhìn
thấy cũng…lắc đầu le lưỡi. Hỏi ai có muốn thử không? Thầy Danh nói: “Tui ngâm
rất kỹ, súc tắm con rắn hết nửa lít rượu nhứt, cho nó uống…rượu no nê, sạch sẽ
rồi mới ngâm. Nhưng tui để 3 tháng rồi mà…hỏng dám uống!”. Mọi người dù đã có
thần tửu Lưu Linh ngấm sơ sơ trong người rồi mà ai cũng lắc đầu ngao ngán. Nên
nhớ là lúc đó ngoại trừ 1 số thầy cô có gia đình ở khu tập thể, đa số giáo vên
trường cấp 3 Kon tum còn rất trẻ, độc thân, vui tính…và rất…yêu đời, không
ai…muốn chết bởi vì cái hũ rượu rắn lục xanh lè kia. Gan cùng mình nhất là thầy
Lợi (Địa) mà cũng ngán huống gì mấy thầy khác, thầy Lợi có gia đình và đã có
vốn …2 con rồi. Chẳng đặng đừng, tôi bèn mạnh dạn…xung phong “khai hội”. Vốn dĩ
là giáo viên trẻ, là thanh niên sôi nổi, nhưng khi mở cái nắp nylon khằn kín hũ
rượu, rồi đưa mũi ngửi và khe khẽ…lắc đầu, hơn chục con mắt anh em nhìn như hỏi
: “Thế nào?”. Tôi nói: “Thơm lắm! Có muốn uống thử không?” rồi rót ra 1 cốc
nhỏ. Một lần nữa, mọi người lại cương quyết…lắc đầu. Than ôi! Đã lỡ “phóng lao
thì phải theo lao”, tui phải đành nín thở uống cốc rượu vào…cái ực. “Thế nào?”,
mọi con mắt lần nữa nhìn vào xem thử ông Thảo Địa (hay còn có nick là “Thổ
địa”, “Thổ nhưỡng”…gì gì …đó theo cách đặt nick của lũ chỉ thua quỷ và ..ma,
hic) có lăn quay ra giữa sàn nhà mà đi cấp cứu không? Câu trả lời hay nhất của
mình lúc đó là gì đố các bạn còn nhơ không?.......Câu trả lời của mình lúc đó
là : “Cho xin cốc nữa!”. Ha ha, sau “tam bôi xà tửu” thấy đương sự sảng khoái
quá, một loáng sau, hũ rượu chỉ còn trơ…cái hũ. Một tuần sau, sau một buổi
chiều lao động vệ sinh vất vả, nổi cơn ghiền, anh em ghé hỏi hỏi thầy Danh “Thế
nào? Còn (hũ) không?” , và câu trả lời như các bạn có thể đoán ra là: Chỉ còn
cái vỏ, dù đã 3 lần ngâm lại. Ha ha..
…Thời gian rồi dần qua, sau này thị xã thành lập
trường học sinh dân tộc nội trú, trả lại môi trường phổ thông trung học cho đến
bây giờ. Sau bao nhiêu năm đằng đẵng ấy, mà những kỷ niệm xưa, trên vùng cao phố
núi Kon tum hai mùa mưa nắng ấy, vẫn không phai mờ trong ký ức tôi. Bây giờ trở
lại Kon tum, thị xã nay đã trở thành thành phố, phố núi không còn cái nét hoang
sơ, êm ả, dễ mến thương như ngày nào. Hàng cây Kơ nia “Bóng ngả che ngực em, về
nhớ em không ngủ..” dạo nào ở khu nội trú chân cầu Đăbla nay không còn nữa. “Giọt
nước” chỉ còn làn cái khoảnh vườn hoa tuy hoành tráng thế, nhưng đó chẳng phải
là “giọt nguồn” hoang sơ nuôi sống bao con người mộc mạc của núi rừng. Không
còn những sơn nữ ngực trần đi gùi ống bương, ống bầu đựng nước. Và trong chốn
phồn hoa dô hội hôm nay, có những hũ rượu sâm “Ngọc Linh” trị giá hàng chục
triệu đồng, có rất nhiều, rất nhiều những gì gọi là “sơn hào, hải dược”, rượu “tam xà”, “ngũ xà”, “Long phụng hòa
minh”…gì gì đi nữa, hay những chai rượu ngoại cực kỳ đắt giá…Tôi vẫn không quên
cái “Hũ rượu rắn lục” nghĩa tình thuở nào, trong cái gian phòng tập thể nội trú
nhỏ bé, đơn giản, với gia đình anh Danh - Gái, những bạn bè giáo viên một thuở
yêu thương ở ngôi trương thung học phổ thông Kon Tum thân thương ấy./.
TNT56
Huế tháng 5/ 2015
(Viết để kỷ niệm “30 năm hội ngộ trường
xưa” của tập thể học sinh khóa 82 – 85)
Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2015
Hoàng Kim Việt: Xe Honda N360
Hoàng Kim Việt: Xe Honda N360: Vào cuối thập niên 1960, miền nam Việt Nam bước qua giai đoạn cơ giới hoá các phương tiện giao thông; một phần do nhu cầu đi lại của dân ...
Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2015
CÂY VỢT NHÔM
CÂY VỢT NHÔM
(Viết cho kỷ yếu Kỷ niệm 30 năm Hội ngộ trường xưa cựu HS trường THPT Kon
tum 1985-2015)
Kon
tum mùa khô hanh những năm 1980, đó là bắt đầu của những tuần đầu của học kì 2
ở ngôi trường Trung học phổ thông cấp 3 phố núi. Trời khô hanh lay lắt, không
khí như nín thở, chiều chiều, những mảnh tro tàn của một cánh rừng nào đó bị
lửa đốt…bay xa và rơi vương vãi xuống khoảnh sân nhỏ bé, quanh co, trải đầy sỏi
cát chen lẫn với những chiếc lá si, lá long não, phượng vỹ..vật vờ. Khoảnh sân
trường nhỏ bé đó được che phủ gần hết 1/3 với cái bóng cây Si khổng lồ: “Có bác
Si già, ôm lấy chú Bằng Lăng”. Gốc si đó không biết đã có tự bao giờ, khi chúng
tôi về trường nhận việc, nó đã đứng đó: uy nghi, ngạo nghễ. Cứ buổi sớm, từng
đàn chim chào mào “khổng tước” không biết từ rừng đại ngàn nào, bay về vần vũ
kể cả hàng trăm con, chen nhau, ríu rít tranh ăn những chùm quả Si đỏ lừng,
ngon ngọt. Thỉnh thoảng, một tiếng kẻng của bác Quý bảo vệ gióng lên báo giờ
đổi tiết, chúng lại giật mình xao xác lảng đi….rồi lại quay trở lại, vấn vít
trên tán lá của ngọn cây vĩ đại của bác
Si già, như đàn em học sinh ngây ngô dưới sân trường, quyến luyến với ngôi
trường yêu dấu vậy.
Một dạo, khoảng năm 1982 gì đó, lần đầu tiên, tôi ở
lại ăn Tết ở tập thể trường cấp 3. Có lẽ không nỗi buồn nào bằng một kỳ ăn tết
xa quê, nhưng dưới cội Si già, mấy anh em ngồi tán dóc, xoa tay, vung “triệt”
những quân cờ Đô Mi Nô, tú - lơ - khơ…cũng phần nào xoa dịu nỗi buồn nhớ tết
quê hương. Dưới cội Si già, chiều 30 tết, chúng tôi bày dọn một cỗ bàn đơn sơ
trên chiếc bàn nhỏ, để cúng tất niên. Vật thực chẳng có gì, đôi cặp bánh chưng
tự gói, mấy gói kẹo mậu dịch, dăm ba chén chè, đĩa xôi, vài nén nhang,…mà lòng
thành lễ bạc.
Một dấu ấn xa xôi lại về bên cội Si già đó, có lẽ thật
khó mà quên được. Một buổi sáng tinh sương khoảng tháng 5- 1980, sáng lơ mơ ngủ
dậy trong phòng nội trú bên cạnh văn phòng Đoàn, bỗng nhiên mình nghe những
tiếng tinh tinh, tang tang..văng vẳng từ nơi đại ngàn rừng thăm, âm thanh kỳ lạ
như từ cõi hư vô nào mà mình chưa từng nghe bao giờ. Dụi mắt, mở cửa bước ra nhìn
thì thấy dưới cội Si già tập trung một nhóm các già làng, bô lão dân tộc đã
ngồi tựa gốc Si từ bao giờ. Trên tay họ là mỗi người 1 cái cồng hoặc chiêng đủ
loại. Âm thanh kỳ ảo chính là từ dàn nhạc cồng chiêng này phát ra. Bên những
ống vố, bầu nước, với y phục cổ truyền, nét mặt bình thản như những khuôn mặt
tượng gỗ nhà mồ…, họ tấu chiêng mà âm thanh đó len lỏi vào hồn người nghe như
tiếng gọi hào hùng, pha nét bi ai của núi cao rừng thẳm. Cũng không biết tại
sao, cổng trường ban đêm đóng lại mà họ lại vào tập trung ngồi lại quanh gốc Si
già? Câu trả lời theo tôi suy nghĩ có lẽ gốc Si già trong sân trường mình thuở
xưa là dấu tích xa xưa của ngôi làng cổ Kon Tum thuở nào chăng? Cả thị xã rộng
lớn bao la, bao nhiêu là cây cao, bóng cả, thảm cỏ, quảng trường, cớ sao họ lại
tụ hội về đây từ nửa đêm để đón chờ ngày Lễ? (Lúc đó, đang có lễ hội “Rước đuốc
Bác Hồ” từ Bắc vô Nam ).
Dù gì đi nữa, sáng sớm mở mắt ra, nhì thấy cảnh tụ hội và nghe những âm thanh
từ xa xôi đại ngàn sâu thẳm đó, trong tôi như có làn gió lạnh sởn óc chạy dọc
sống lưng! Ôi, Kon Tum, đất cao nguyên cổ xưa của bao nhiêu truyền thuyết,
huyền hoặc… lại trỗi dậy ùa về trong tôi như một cảm xúc lạ kỳ, không bút mực
nào tả hết được….
Hồi đó, tập thể giáo viên trẻ ở nội trú đa số chưa có
gia đình, sống bên nhau trong nội trú của trường còn khăng khít hơn anh em
ruột. Ngoài những giờ lên lớp, soạn bài, hay là những tiết sinh hoạt chủ nhiệm
“tra tấn” học trò, anh em chỉ còn có việc đi chợ, thổi cơm, kho cá, nấu
canh…như những bà nội trợ thực thụ. Một cái bếp nhỏ phía sau dãy nội trú, dưới
bóng cây mít, vài chiếc bàn hỏng chỏng chơ…dăm cục gạch kê ông táo…Đó chính là
“tài sản” dùng để nấu ăn, nuôi sống 3, 4 anh em chúng tôi. Mọi sự phân công đều
rất khoa học và chính xác, bằng lối tư duy của những cái đầu “trí tuệ” của quý
vị giáo sư tốt nghiệp từ trường đại học cơ đấy. Anh nào nhanh nhẹn, chịu đựng
sự tò mò của “dư luận” .., thì lo đi chợ. À, mà phải có cái duyên buôn bán nữa
đó, ban đầu thì đổi phiên, sau đó, cơ chế phân chia nó tự động hình thành. Thầy
H., thầy T…lo đi chợ, thầy T. lo pha chế, nấu ăn, thầy N. lo “bia” phượng khô,
làm chất đốt. Hít hà,… cứ như thế, mỗi lúc hết tiết 5, học sinh tan trường, thì
cũng là lúc nồi cơm nấu xong, bắt đầu công cuộc “tra tấn” khứu giác học sinh
với mùi phi hành mỡ thơm lừng…lan tỏa từ cái hiên bếp nhỏ bé phía sau văn phòng
Đoàn thuở ấy. Bữa cơm đạm bạc, canh rau tập tàng, đĩa cá ngừ hấp kho trộn với
dưa cải muối “Tân Xạ”, xoong cá mà cải nhiều gấp mấy lần cá…bên chén nước mắm,
ít quả ớt hiểm….thế mà ngon không thể tả, nuôi sống và làm ấm lòng những cái dạ
dày lép kẹp của những chàng trai “hay ăn, chậm lớn” này.
Đã có làm, có ăn, thì phải có …chơi. Thể thao chính là
cái phao cứu sinh cho những buổi chiều rảnh rỗi. Cái sân bóng chuyền trước dãy
nhà hội trường, một khoảnh sân cát với 2 cái cọc lưới bằng thân cây gỗ nguyên
sơ với cái ống đạn cà nông bọc ngoài, mảnh lưới con con không đủ kích cỡ…lại là
nguồn vui cho tập thể anh em giáo viên của trường. Không cần đội hình, không
cần giày áo, cứ chân trần, với 1 quả bóng, trên cái sân cát đó, là đã có những
“chầu” các độ uống cà phê, ăn phở “ông Quáng” sôi nổi rồi. Đội hình thì đủ cả
các thể loại: 4-4, 3-3, 2-2, và cả solo 1 chọi 1…(Có lẽ bộ môn bóng chuyền bãi
biển quốc tế bây giờ cũng còn kém xa độ hot bấy giờ đấy chú!).
Đáng nể nhất là câu chuyện “cây vợt nhôm” của tôi xin
kể ra đây. Số là hồi đó, ở Kon tum chưa có bộ môn đánh cầu lông cho học sinh.
Tất nhiên trong kho học cụ, cũng chỉ có mấy cái khung vợt gỗ cầu lông lèn quèn,
khung cong vênh, lưới đứt chỏng chơ… Để khôi phục “phong trào” đánh cầu lông,
hôm tháng trước về nghỉ Tết ở Huế, tranh thủ mấy hôm rảnh rỗi, tôi bèn ra sức
gia công làm 1 cặp “vợt nhôm”. Nên nhớ là lúc đó, 1 cái “láp xe độp” tức là cái
lốp xe đạp, cũng phải chờ đăng ký, 3 năm mới được mua phân phối, xe đạp là đồ
xa xỉ, thì cái vợt cầu lông tốt ở Huế và Kon tum: có thể nói là “không thấy bao
giờ”. Khung nhôm được cưa từ mảnh nhôm ballet nhôm lót sân bay (tấm ri nhôm),
sau đó uốn nắn theo kích cỡ 1 cái vợt cũ mua trước 1975. Khoan lỗ bằng khoan
tay tự chế, và lưới đan là dây cước câu cá…Thế là đã hoàn chỉnh một “tác phẩm”
công nghệ khá hoàn hảo: 2 cây vợt nhôm “made in Như Thảo”, bằng nguyên liệu USA đàng hoàng.
Khi vào những
tháng 3 “mùa con ong đi lấy mật”..Tây nguyên gió bụi mùa khô ngút ngàn, cũng là
lúc khi đàn chim “chào mào” về tranh nhau quả ngọt của Cây si già, cũng là lúc
chúng tôi “khai trương” phong trào “Badminton” trên đất Kon Tum. Sẵn cái sân
bóng rổ cũ phía sau hội trường, kề bên cái giếng, lại được bao bọc 3 phía bởi
tường nhà và tường rào phía Thị đội, đây chính là địa điểm lý tưởng để kẻ vẻ
kích thước cho cái sân “vũ cầu” của chúng tôi. Và thế là, sáng chủ nhật, hay
vào các buổi chiều khi mặt trời tắt nắng, phong trào đánh vũ cầu trong sân sau
của Hội trường luôn râm ran, sôi nổi. Mạnh nhất có lẽ là thầy V.Quang, cây
tennis – giáo viên thể dục, đội lão tướng “anh hùng cái thế” lại là thầy Quáng
nhà mình. Còn lại thì anh em cứ …sàn sàn…, vừa đủ “câu độ” cho vui cửa vui nhà.
Nuôi nhau bằng “xôi mậu dịch”, “cà phê Da Vàng”, tươi hơn thì một chầu “phở bò
kho” ông Quáng, hay tô bún ông “Tàu dơ”, hay là một bữa đại tiệc “bò viên” của
ông “Tàu la”, với vài cốc rượu đế lai rai…. Đời đơn giản, thế mà vui! Thế rồi,
tiếng lành đồn xa, mấy anh em ở phường Quyết Thắng như anh ..Minh…cũng cùng vào
góp vui, sau này, nhờ các chuyến xe buýt Sài Gòn – Kon Tum, anh em có điều kiện
mua về nhiều cặp vợt nhôm của Liên Xô, của nước ngoài rất đẹp…
-Bên cổng trường năm 1985- GV và HS ban văn nghệ THPT Kon Tum
Thời gian qua mau, mới đó mà đã trải qua hơn 30 mùa
Xuân trở lại. Bây giờ với một đô thị thành phố phát triển, nhiều sân chơi như
sân tennis, nhiều nhà thi đấu của thành phố hiện đại, nhiều cây vợt “xịn” giá
hàng trăm USD…nhưng trong ký ức của tôi, “cây vợt nhôm” tự chế đã làm nên công
việc “tái khởi động” phong trào chơi cầu lông, môn thể thao bao năm bị “ru ngủ’
nay đã “hồi sinh” lại ở phố núi và trường xưa, luôn luôn là một kỉ niệm đẹp
trong tôi, không bao giờ quên được.
Trường cũ, sân trường xưa với những bục “ghế đá” thô
sơ, cái giếng, Cây Si già “ôm lấy chú Bằng lăng”, và nhất là khoảnh sân vũ cầu
xưa sau dãy hội trường, “cây vợt nhôm” ….đã đi vào dĩ vãng, minh chứng cho một
thời “sống để thương nhau” trong môi trường anh em sư phạm trường cũ của tôi:
Trường Trung học phổ thông Kon Tum.
TNT56
Kỷ niệm “30
năm hội ngộ trường xưa”
GỎI LÁ KON TUM ĐỘC ĐÁO PHỐ NÚI
Về thăm lại Kon Tum 2015
Nếu một lần đến phố núi nằm ở cực bắc Tây nguyên (Kontum), mời bạn cùng cư dân vùng sơn cước thưởng thức món gỏi lá đặc sản Tây Nguyên. Gỏi lá được chọn từ hơn 40 loại lá khác nhau, nhiều loại rất quen thuộc nhưng cũng có những loại phải tìm kiếm từ rừng Tây Nguyên mới có.
Xếp một "rừng" lá, vị chủ nhà bắt đầu giới thiệu cho du khách từng loại lá khác nhau như lá lộc vừng, sâm đất, hồng ngọc, mơ, cải cay, ổi, đinh lăng, sung, lá lốt, trâm, mã đề, diếp cá, chó đẻ răng cưa, quế, húng, thuyền đất… Mỗi loại có một tác dụng chữa bệnh khác nhau. Lấy các loại lá này cuốn thành hình phễu để gắp vào đó các loại thức ăn. Các món ăn kèm với lá như thịt heo ba chỉ, tôm rang, da heo thái mỏng trộn cùng bột gạo nếp rang.
Nước chấm được làm từ bỗng rượu, được khử qua dầu ăn, lẫn cùng trứng vịt thành loại nước chấm sền sệt. Tiêu để nguyên cả hạt, muối hạt, ớt cay xanh, hành lá… là những gia vị không thể thiếu. Kẹp đủ các loại lá, bỏ vào đó thịt, tôm, da heo, gia vị rồi ăn cùng một lúc, nhai càng kỹ càng dễ nhận ra nhiều hương vị vừa có vị chan chát, vừa ngòn ngọt, chua chua và vừa bùi béo ngậy của thịt, tôm.
- Món Gỏi lá Kon Tum
Sau mỗi lần ăn, làm thêm một ngụm rượu được ngâm lâu ngày từ rễ cây đinh lăng. Cuối cùng là một nồi cháo cá lóc, nóng hổi để ăn lót bụng là tuyệt nhất. Theo nhiều người dân phố núi, ăn gỏi lá nhiều rất tốt, bởi hầu hết đều là những lá cây thuốc nam có tác dụng chữa bệnh. Người mắc các chứng bệnh về tim mạch, đường tiêu hóa … ăn vào có thể chữa bệnh.
- Uống rượu sâm Ngọc Linh với gỏi lá mới sành điệu...
Gỏi lá hình như độc nhất chỉ có ở thành phố Kon Tum, và cũng chỉ có ở Kon Tum ăn gỏi lá mới ngon, nơi khác có lá chắc gì đã có gỏi lá? Tương truyền cách đây độ 5-6 năm gì đó, khi đời sống mới đi lên nhưng chưa đủ khá khẩm. Một hôm ông chủ quán phải tiếp 1 nhóm bạn về thăm lại chiến trường xưa Kon Tum...Nhưng vì "…vườn rộng, rào thưa khó đuổi gà..ao sâu nước cả không chài cá...", nên ông bèn ra vườn sau kiếm ít rau ăn dặm với thịt 3 rọi (3 chỉ), nhưng vườn rau rộng và nhiều loại quá, lại ở cao nguyên khí hậu tốt lành nên có nhiều loại rau ngon không bỏ được...nên đành vơ về cả đống. Về nhà, thịt thì ít, nên rang thêm ít con tôm đất, đổ thêm nước lèo pha trứng, dăm bảy hạt tiêu, tý da heo luộc tẩm thính gạo nếp...rồi nhón tất cả cho vào 1 cái phễu lá rồi gói các món lá nào mà mình thích ...Vậy là thành món gỏi lá Kon Tum "Danh bất hư truyền"...
- Chọn mỗi lá 1 ít, nhón phụ gia để dùng...
Cảm nhận riêng của tôi: Đã 2
lần ăn gỏi lá Kon tum: Lần thứ nhất năm 2013, khi về lại Kon tum dự kỷ niệm 30
năm ngày HS khóa 1983 ra trường, đã cùng thử món gỏi lá , lúc đó, được dùng gỏi
lá với rượu sâm Ngọc Linh, trong tiết trời cuối mùa mưa tháng 9 còn heo
may...Hương vị của lá rừng như vị sống đại ngàn lan tỏa rất lạ. Trong không khí
chan hòa tình cảm của thầy trò sau hơn 30 năm gặp lại. Lần thứ 2, tháng 7/2015,
về lại Kon tum trong dịp Lễ kỷ niệm "30 năm Hội Ngộ Trường xưa"
của Cựu HS PTTH
Kon Tum 1982-1985, nhân 1 buổi chiều thứ 7 sau dịp lễ, khi ghé thăm nhà của
HS cũ, đúng gần nơi có gỏi lá...Thế là lại được nhâm nhi mốn gỏi lá độc đáo này
và giới thiệu cho bạn cũ cùng
thưởng thức....Cái vị cay, chát, chua, đắng, ngát...không thể diễn tả được của
núi rừng Tây nguyên chen lẫn trong cái tình cảm của bằng hữu một thời gian khó
cùng dạy học miền núi những năm 80, cũng như hơi ấm của tình cảm thầy trò sau
hơn 30 năm gặp gỡ...
Ôi, đất Tây Nguyên, với phố núi nhỏ bé, với hương vị
của đại ngàn, với bao kỷ niệm như gói trọn trong món gỏi lá nầy...
(Viết về 1 kỷ niệm đẹp nhân 30 năm ghé lại trường xưa Cấp 3 Kon Tum...)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)